Saturday, December 18, 2010

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa giảng giải part 2 (pham tua)

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM TỰA

Thông thường ở mỗi bộ kinh, phần đầu là tựa. Phẩm Tựa nói lên ý nghĩa tổng quát toàn bộ kinh. Các kinh mở đầu đều có Lục chủng chứng tín. Đó là sáu điều chứng cứ của ngài A-nan nêu ra, để người nghe có đủ lòng tin pháp Ngài tụng là do Phật nói. Lục chủng chứng tín giống như một biên bản của thơ ký trong phiên họp ngày nay vậy.


CHÁNH VĂN:
1.- Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, nơi thành Vương Xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một muôn hai nghìn người câu hội. Các vị đó đều là bực A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong, dứt sự ràng rịt trong các cõi, tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A-nhã Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Dà-gia Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề, Ly-bà-đa, Tất-lăng-già-bà-ta, Bạc-câu-la, Ma-ha Câu-si-la, Nan-đà, Tôn-đà-la Nan-đà, Phú-lâu-na-di-đa-la-ni Tử, Tu-bồ-đề, A-nan, La-hầu-la v.v... đó là những vị đại A-la-hán hàng trí thức của chúng.

Lại có bực hữu học và vô học hai nghìn người.

Bà Tỳ-kheo ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với quyến thuộc sáu nghìn người câu hội. Mẹ của La-hầu-la là bà Tỳ-kheo ni Gia-thâu-đà-la cũng cùng với quyến thuộc câu hội.

2.- Bực đại Bồ-tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều chứng đặng pháp Đà-la-ni nhạo thuyết biện tài, chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm nghìn chư Phật, ở nơi các đức Phật trồng các cội công đức.

Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí huệ của Phật, thông đạt đại trí đến nơi bờ kia, danh đồn khắp vô lượng thế giới, có thể độ vô số trăm nghìn chúng sanh.

Tên của các vị đó là: Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát, Đắc Đại Thế Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ-tát, Bất Hưu Tức Bồ-tát, Bửu Chưởng Bồ-tát, Dược Vương Bồ-tát, Dõng Thí Bồ-tát, Bửu Nguyệt Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát, Mãn Nguyệt Bồ-tát, Đại Lực Bồ-tát, Vô Lượng Lực Bồ-tát, Việt Tam Giới Bồ-tát, Bạt-đà-bà-la Bồ-tát, Di-lặc Bồ-tát, Bửu Tích Bồ-tát, Đạo Sư Bồ-tát v.v... các vị đại Bồ-tát như thế tám muôn người câu hội.

3.- Lúc bấy giờ, Thích đề-hoàn nhơn cùng quyến thuộc hai muôn vị thiên tử câu hội.
Lại có Minh Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bửu Quang thiên tử, bốn vị đại Thiên vương cùng với quyến thuộc một muôn thiên tử câu hội. Tự Tại thiên tử, Đại Tự Tại thiên tử, cùng với quyến thuộc ba vạn thiên tử câu hội.

Chủ cõi Ta-bà: Phạm Thiên vương, Thi-khí Đại Phạm, Quang Minh Đại Phạm v.v... cùng với quyến thuộc một muôn hai nghìn vị thiên tử câu hội.

Có tám vị Long vương: Nan-đà Long vương, Bạt-nan-đà Long vương, Ta-dà-la Long vương, Hòa-tu-kiết Long vương, Đức-xoa-ca Long vương, A-na-bà-đạt-đa Long vương, Ma-na-tư Long vương, Ưu-bát-la Long vương v.v... đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Có bốn vị Khẩn-na-la vương: Pháp khẩn-na-la vương, Diệu Pháp khẩn-na-la vương, Đại Pháp khẩn-na-la vương, Trì Pháp khẩn-na-la vương đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Có bốn vị Càn-thát-bà vương: Nhạc càn-thát-bà vương, Nhạc Âm càn-thát-bà vương, Mỹ càn-thát-bà vương, Mỹ Âm càn-thát-bà vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Có bốn vị A-tu-la vương: Bà-trỉ a-tu-la vương, Khư-la-khiên-đà a-tu-la vương, Tỳ-ma-chất-đa-la a-tu-la vương, La-hầu a-tu-la vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Có bốn vị Ca-lâu-la vương: Đại Oai Đức ca-lâu-la vương, Đại Thân ca-lâu-la vương, Đại Mãn ca-lâu-la vương, Như Ý ca-lâu-la vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Vua A-xà-thế, con bà Vi-đề-hi, cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Cả chúng đều lễ chơn Phật, lui ngồi một phía.

GIẢNG:
“Tôi nghe”, chỉ cho Tôn giả A-nan, người nghe và thuật lại kinh này - Văn thành tựu.
“Như thế này”, chỉ pháp mà ngài A-nan nghe Phật nói, đó là kinh Pháp Hoa - Tín thành tựu.

“Một thuở nọ”, là thời gian nói kinh. Xưa, thời gian mỗi nơi mỗi khác, không thống nhất, nên chỉ nói một thuở nọ, chớ không nói ngày mấy, tháng mấy, lúc mấy giờ - Thời thành tựu.

“Đức Phật”, là vị chủ tọa trong buổi thuyết pháp - Chủ thành tựu.

“Núi Kỳ-xà-quật”, nơi thành Vương Xá là chỗ Phật thuyết pháp - Xứ thành tựu.

“Chúng đại Tỳ-kheo một muôn hai nghìn người là bậc A-la-hán, như A-nhã Kiều-trần-như..., hàng Tỳ-kheo hữu học và vô học có trên hai ngàn người. Các Tỳ-kheo ni như Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Gia-thâu-đà-la và quyến thuộc. Hàng Bồ-tát có tới tám muôn như Bồ-tát Văn-thù, Bồ-tát Quán Âm... Thích đề-hoàn nhơn và quyến thuộc. Tứ thiên vương và quyến thuộc. Phạm Thiên vương và các vị trời cùng với quyến thuộc. Long vương và quyến thuộc. Khẩn-na-la vương cùng quyến thuộc. Càn-thát-bà vương cùng quyến thuộc. A-tu-la vương cùng quyến thuộc. Ca-lâu-la vương cùng với quyến thuộc. Vua A-xà-thế cùng với quyến thuộc” là những cử tọa đến nghe pháp - Chúng thành tựu.

Sáu điều trên đây gọi là Lục chủng chứng tín, nghĩa là sáu điều làm bằng chứng để cho chúng ta tin kinh này không phải ngài A-nan tự ý nói, mà chính Ngài đã cùng nghe với thính chúng và thuật lại.


CHÁNH VĂN:
4.- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, hàng tứ chúng vây quanh cúng dường cung kỉnh ngợi khen tôn trọng, vì các vị Bồ-tát mà nói kinh Đại thừa tên là “Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”.

GIẢNG:
Kinh “Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm” là bộ kinh có nghĩa lý sâu rộng, không thể nghĩ lường được. Kinh này dạy cho hàng Bồ-tát tu để thành Phật, và chính kinh này là chỗ mà chư Phật hằng hộ niệm. Đoạn này không ghi Phật nói kinh như thế nào, chỉ nói tổng quát là kinh Đại thừa tên “Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”.


CHÁNH VĂN:

Nói kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định “Vô lượng nghĩa xứ”, thân và tâm của Phật đều không lay động.

GIẢNG:

Từ trước, Phật tùy theo căn cơ cao thấp của chúng sanh mà phương tiện nói kinh nghĩa lý hữu lượng, chớ kinh Vô lượng liễu nghĩa thì chưa từng nói. Nay thấy căn cơ đệ tử đã thuần thục, Phật mới nói kinh Vô Lượng Nghĩa và nhập chánh định tên là Vô lượng nghĩa xứ, để chuẩn bị tư thế nói kinh Pháp Hoa là chân lý tuyệt đối.


CHÁNH VĂN:
Khi đó trời mưa hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cõi Phật sáu điệu vang động.
Lúc bấy giờ, trong chúng hội, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhơn, phi nhơn và các vị tiểu vương cùng Chuyển Luân Thánh vương, các đại chúng ấy đều được thấy việc chưa từng có, vui mừng chấp tay một lòng nhìn Phật.

GIẢNG:
Khi Phật nói kinh “Vô Lượng Nghĩa” xong, Ngài nhập định thì chư thiên rải hoa cúng dường, quả đất rung động, phát ra sáu thứ âm thanh vi diệu. Bấy giờ, thính chúng trong hội thấy việc chưa từng có, nên vui mừng chấp tay một lòng hướng về đức Phật mắt không tạm rời.


CHÁNH VĂN:

5.- Bấy giờ, đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặng mày phát ra luồng hào quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương Đông, dưới thời chiếu đến địa ngục A-tỳ, trên suốt thấu trời Sắc Cứu Cánh. Chúng ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng sanh ở các cõi kia.

GIẢNG:
Đoạn này dùng hình ảnh để hiển bày cái chân thật tuyệt đối, đó là Tri kiến Phật. Sở dĩ không dùng ngôn ngữ để diễn tả, là vì mọi ngôn ngữ đều ở trong vòng tương đối, không thể nói lên pháp tuyệt đối. Hai chân mày là hai bên chỉ cho pháp tương đối: có không, phải quấy, tốt xấu... Lông trắng giữa chặng mày tượng trưng cho lý Trung đạo không kẹt hai bên đối đãi. Hào quang là ánh sáng, tượng trưng cho Trí tuệ Phật. Qua hình ảnh tượng trưng đó, nếu chúng ta biết xoay lại mình để tu tập như lời dạy của Tổ Bá Trượng, mới thấy được ý nghĩa huyền diệu của kinh Đại thừa. Người không còn kẹt hai bên là người hằng sống với lý Trung đạo, thì được trí tuệ viên mãn. Trí tuệ viên mãn là Trí tuệ Phật thênh thang rộng lớn, nên soi rọi thấu suốt một muôn tám ngàn cõi ở phương Đông, từ địa ngục cho tới cõi trời Sắc Cứu Kính. Nếu nương theo Trí tuệ Phật thì chúng ta sẽ thấy rõ các cõi, biết rõ nhân quả của sáu loài chúng sanh luân hồi trong lục đạo, và cũng thấu suốt được nguyên nhân tu hành cùng quả báo của các vị Tỳ-kheo, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Ở đây có điều khiến cho chúng ta nghi vấn là, tại sao hào quang Phật chỉ soi thấu về phương Đông mà không soi về các phương khác? - Phương Đông là phía mặt trời mọc, ánh sáng của ngày bắt đầu từ phương Đông, chiếu rọi khắp cả. Còn phương Tây là phía mặt trời lặn, ánh sáng của ngày mờ dần và tắt hẳn. Phật muốn chỉ cho mọi người trí tuệ cứu kính của Phật thấu suốt tất cả pháp, nên Ngài dùng phương Đông là phương mở màn cho ánh sáng ban mai để làm ví dụ.

No comments:

Post a Comment