Tuesday, February 1, 2011

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa giảng giải part 16

CHÁNH VĂN:

7.- Thế Tôn! Bấy giờ Trưởng giả có bịnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết mới bảo cùng tử rằng: “Ta nay rất nhiều vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, trong đó nhiều ít chỗ đáng xài dùng, ngươi phải biết hết đó. Lòng ta như thế, ngươi nên thể theo ý ta.

Vì sao? Nay ta cùng ngươi bèn là không khác, nên gắng dụng tâm chớ để sót mất.”
Khi ấy cùng tử liền nhận lời bảo, lãnh biết các của vật, vàng, bạc, trân báu và các kho tàng, mà trọn không có ý mong lấy của đáng chừng bữa ăn, chỗ của gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ liệt cũng chưa bỏ được
.

GIẢNG:

Gã cùng tử theo lời yêu cầu của ông Trưởng giả, nhận quản lý kho báu trong nhà nhưng vẫn còn ở ngoài hành lang và chưa dám nghĩ mình có phần trong đó. Cũng vậy, hiện tại nhiều người tu nghe kinh nói mỗi chúng sanh ai cũng có Phật tánh, Bồ-tát tu Lục độ vạn hạnh viên mãn thì sẽ thành Phật. Nghe như vậy rồi khi ra giảng nói cũng giảng nói như vậy, nhưng trong thâm tâm chỉ mong đời này mình tu chứng quả Tu-đà-hoàn hay Tư-đà-hàm là được rồi, chớ không dám nghĩ mình có thể thực hiện được hạnh Bồ-tát.


CHÁNH VĂN
:

8.- Lại trải qua ít lâu sau, cha biết ý chí con lần đã thông thái trọn nên chí lớn, tự chê tâm ngày trước. Đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc, quốc vương, quan đại thần, dòng Sát-lợi, hàng cư sĩ, khi đã nhóm xong, ông liền tự tuyên rằng: “Các Ngài nên rõ, người nầy là con ta, của ta sanh ra, ngày trước trong thành nọ, bỏ ta trốn đi, nổi trôi khổ sở, hơn năm mươi năm, nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành này lòng lo lắng tìm kiếm, bỗng ở nơi đây gặp được nó. Nó thiệt là con ta, ta thiệt là cha nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là của con ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết.”

Thế Tôn! Khi đó gã cùng tử nghe cha nói như thế, liền rất vui mừng được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng: “Ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho tàng báu này tự nhiên mà đến
.”

GIẢNG:

Khi thấy con mình có trí khôn đủ khả năng quản lý gia sản, ông Trưởng giả bèn họp tất cả thân tộc lại tuyên bố gã cùng tử chính là con ruột của ông, sự nghiệp của ông chính là sự nghiệp của con ông. Gã cùng tử không có lòng mong cầu mà nay bất ngờ được kho báu, nên rất vui mừng được điều chưa từng có. Ví dụ này nói lên tâm trạng vui mừng bất ngờ của hàng đệ tử Thanh văn khi nhận ra Tri kiến Phật.


CHÁNH VĂN
:

9.- Thế Tôn! Ông phú Trưởng giả đó là đức Như Lai, còn chúng con đều giống như con của Phật. Đức Như Lai thường nói chúng con là con.

Thưa Thế Tôn! Chúng con vì ba món khổ nên ở trong sanh tử chịu các sự đau đớn mê lầm không hiểu biết, ưa thích các pháp Tiểu thừa. Ngày nay đức Thế Tôn khiến chúng con suy nghĩ dọn trừ những phân dơ các pháp hí luận. Chúng con ở trong đó siêng gắng tinh tấn được đến Niết-bàn, cái giá một ngày. Đã được đây rồi lòng rất vui mừng tự cho là đủ, mà tự nói rằng: “Ở trong pháp của Phật, do siêng năng tinh tấn nên chỗ được rộng nhiều.”

Nhưng đức Thế Tôn trước biết chúng con lòng ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi pháp Tiểu thừa, chúng con bèn bị Phật buông bỏ, chẳng vì phân biệt rằng: Các ông sẽ có phần bửu tàng Tri kiến của Như Lai.

Đức Thế Tôn dùng sức phương tiện nói bày trí huệ của Như Lai. Chúng con theo Phật được giá Niết-bàn một ngày cho là được nhiều rồi, đối với pháp Đại thừa này không có chí cầu. Chúng con lại nhân trí huệ của Phật, vì các vị Bồ-tát mà chỉ bày diễn nói, nhưng chính tự mình lại không có chí muốn nơi pháp đó.

Vì sao? Đức Phật biết chúng con ưa nơi pháp Tiểu thừa, nên dùng sức phương tiện thuận theo chúng con mà nói pháp, chúng con không tự biết thật là Phật tử. Ngày nay chúng con mới biết đức Thế Tôn ở nơi trí huệ của Phật không có lẫn tiếc.
Vì sao? Chúng con từ xưa đến nay thật là Phật tử mà chỉ ưa nơi pháp Tiểu thừa, nếu chúng con có tâm ham Đại thừa thời Phật vì chúng con mà nói pháp Đại thừa. Ở trong kinh này chỉ nói pháp Nhứt thừa. Lúc xưa đức Phật ở trước Bồ-tát chê trách Thanh văn ham pháp Tiểu thừa.

Nhưng đức Phật thiệt dùng Đại thừa để giáo hóa, vì thế nên chúng con nói vốn không có lòng mong cầu mà nay báu lớn của đấng Pháp vương tự nhiên đến, như chỗ nên được của Phật tử đều đã được đ
ó.

GIẢNG:

Ngài Ma-ha Ca-diếp hợp pháp ví dụ này: Ông phú Trưởng giả đó là đức Như Lai, cùng tử là hàng Thanh văn, là con của Phật. Ngài nêu lên ba món khổ làm chướng đạo Bồ-đề là khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Khổ khổ là ngay nơi thân tâm con người bị lửa vô thường, lửa tham sân si thiêu đốt làm cho đau khổ, lại còn bị ngoại cảnh như thiên tai, binh biến, nghèo đói... chồng chất thêm một lớp khổ nữa gọi là khổ khổ. Hoại khổ là thân con người từng sát-na mọi tế bào sanh diệt... vừa thấy tóc xanh, thoáng chốc đã bạc đầu, da nhăn, răng rụng, mắt mờ, tai điếc... đó là hoại khổ. Hành khổ là sự biến dịch đổi thay nơi con người đưa đến sự già chết. Hành khổ còn chỉ cho hành nghiệp dẫn dắt thần thức đi thọ thân năm ấm, chịu luật vô thường chi phối nên khổ đau.

Các bậc Thanh văn do nhận ra ba cái khổ này nên quyết tâm cầu thoát ly sanh tử, bằng cách thích tu pháp Tứ đế để chứng Niết-bàn. Vì vậy khi nghe lời Phật dạy, các ngài lo dọn trừ những phân dơ hí luận, tức là tránh xa các lối hí luận suông để vui cười, không giúp cho người nghe thấy được đạo. Bởi dẹp hết hí luận, nên sạch hết nhiễm trước, do sạch hết nhiễm trước được chứng Niết-bàn. Niết-bàn này chỉ có giá trị bằng một ngày! Niết-bàn là vô sanh, đã là vô sanh thì không lệ thuộc thời gian tại sao nói giá trị bằng một ngày? Do tu nên vọng tưởng dừng lặng, khi vọng tưởng dừng lặng cho đó là vô sanh, là Niết-bàn. Niết-bàn đó là trạng thái dừng lặng của vọng tưởng, chưa phải là Niết-bàn chân thật. Nếu tu mà nhận được Tri kiến Phật nơi chính mình chưa từng sanh chưa từng diệt mới là Niết-bàn chân thật cứu kính. Còn Niết-bàn do dừng vọng tưởng, tâm vắng lặng mà không nhận ra Thật thể của chính mình, nên ở đây kinh nói giá trị một ngày.

Thí dụ tọa thiền trụ tâm vào một cảnh, chẳng hạn như quán thân bất tịnh, dồn hết tâm lực quán sát, thân này là ô uế bất tịnh, lúc nào cũng thấy hình hài này là bất tịnh, không có một niệm khác dấy khởi thì tâm được định. Tuy nhiên, tâm chỉ định trong thời gian quán chiếu, khi hết quán thì tâm hết định. Còn định của Đại thừa là nhận ra Tri kiến Phật có sẵn nơi mình, mà Tri kiến Phật thì hằng hữu, bất động, nên đi đứng nằm ngồi, bửa củi, nấu cơm, không lúc nào thiếu vắng. Hằng sống với Tri kiến Phật thì không có loạn tưởng, không loạn tưởng là định. Định này không xuất không nhập, nên nói là Đại định, là Niết-bàn viên mãn.

Ngài Ma-ha Ca-diếp thật thà lặp lại rằng Phật có nêu Tri kiến Phật nhưng các ngài đã được Niết-bàn Thanh văn nên lấy làm hài lòng, không cầu pháp Đại thừa. Tới đây có điều chúng ta lấy làm lạ là các ngài Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề… khi nói pháp cho hội chúng nghe thì các ngài cũng nói pháp Đại thừa. Tại sao các ngài không thích và không cầu pháp Đại thừa, mà lại giảng nói pháp Đại thừa?
Nhân vì các ngài quen nghe Phật khen ngợi pháp Đại thừa, nên có người cần cầu pháp Đại thừa thì các ngài cũng nói, nói để cho người nghe, chớ các ngài không mong cầu. Nếu có người hỏi về hạnh của Bồ-tát phải tu Lục độ ba-la-mật như thế nào, thì các ngài biết liền chỉ dạy cho người tu, nhưng chính các ngài thì không ham thích pháp tu của Bồ-tát. Hiện nay chúng ta tu có vấp phải lỗi này không? Thí dụ trong giới xuất gia, có người tới học đạo, hỏi: Làm thế nào để diệt tham sân si? Các vị trả lời rất rành rẽ, muốn hết tham phải tu hạnh bố thí, muốn đoạn trừ sân phải tu hạnh từ bi nhẫn nhục, muốn dứt sạch si mê phải quán mười hai nhân duyên, hay giới phân biệt quán. Giải thích bố thí phải bố thí như thế nào, Quán từ bi phải quán ra sao, Quán mười hai nhân duyên hay giới phân biệt quán thì phải quán như thế nào. Giải thích một cách rõ ràng tường tận. Nhưng chính bản thân mình khi đối duyên xúc cảnh thì vẫn tham, vẫn sân, vẫn si. Như vậy là sao? Vì người mong cầu muốn dứt trừ tham sân si, được chúng ta hướng dẫn thì họ nỗ lực tu hành. Còn chúng ta nhờ nghe học nên hiểu biết, nhưng lòng chưa thiết tha loại bỏ nên không tu, tham sân si vẫn còn nguyên vẹn.
Nhiều khi tôi thấy hơi buồn và hổ thẹn. Phật tử ở thế gian, gặp những hoàn cảnh bất như ý phiền não, vào chùa nhờ các thầy các cô giảng dạy, cứu cho họ bớt buồn khổ. Lúc đó các thầy các cô dạy lý thuyết nghe cũng hay lắm. Nhưng rồi mai kia các thầy các cô phiền não thì Phật tử an ủi lại! Như vậy là sao? Ai dạy ai? Nếu chúng ta là người có trách nhiệm đi trước, điều gì chúng ta dạy cho người thì điều đó chúng ta phải làm được, nếu chúng ta làm chưa được viên mãn thì chúng ta cũng làm được đôi phần. Đã làm được đôi phần thì khả dĩ không hổ thẹn. Điều mình làm không được mà đem ra dạy người, đó chỉ là lý thuyết suông không đem lợi ích cho ai cả.

Đức Phật thuận theo tâm nguyện của các đệ tử, dùng sức phương tiện hướng dẫn cho các đệ tử biết rằng mình là con của Phật. Khi thấy công hạnh đệ tử gần viên mãn thì Phật liền trao truyền sự nghiệp cho, điều mà hàng Thanh văn đệ tử Phật chưa bao giờ nghĩ tới, không có tâm mong cầu, ngoài sức tưởng tượng của các ngài. Đây là lòng chân thành sau khi thấy đạo, các ngài nói lên chỗ hi hữu của mình để đức Phật chứng minh.


CHÁNH VĂN
:

Bấy giờ ngài Ma-ha Ca-diếp muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

10.-
Chúng con ngày hôm nay
Nghe âm giáo của Phật
Lòng hớn hở mừng rỡ
Được pháp chưa từng có
Phật nói hàng Thanh văn
Sẽ được thành quả Phật
Đống châu báu vô thượng
Chẳng cầu tự nhiên được
Ví như gã đồng tử
Thơ bé không hiểu biết
Bỏ cha trốn chạy đi
Đến cõi nước xa khác
Nổi trôi khắp nước ngoài
Hơn năm mươi năm dài
Cha gã lòng buồn nhớ
Kiếm tìm khắp bốn phương
Kiếm tìm đó đã mỏi
Liền ở lại một thành
Xây dựng nên nhà cửa
Năm món dục tự vui
Nhà ông giàu có lớn
Nhiều những kho vàng, bạc
Xa-cừ, ngọc mã não
Trân châu, ngọc lưu-ly
Voi ngựa cùng trâu dê
Kiệu, cáng, đủ xe cộ
Ruộng đất và tôi tớ
Nhân dân rất đông nhiều
Xuất nhập thâu lời lãi
Bèn khắp đến nước khác
Khách thương người buôn bán
Không xứ nào không có,
Nghìn muôn ức chúng hội
Vây quanh cung kính ông,
Thường được bậc vua chúa
Mến yêu nhớ tưởng đến
Các quan, hạng hào tộc
Đều cũng đồng tôn trọng.
Vì có các sự duyên
Người đến lui rất đông
Giàu mạnh như thế đó
Có thế lực rất lớn
Mà tuổi đã già nua
Lại càng buồn nhớ con
Ngày đêm luống suy nghĩ
Giờ chết toan sắp đến
Con thơ dại bỏ ta
Hơn năm mươi năm tròn
Các của vật kho tàng
Sẽ phải làm thế nào
?

GIẢNG:

Ngài Ma-ha Ca-diếp lặp lại ý trên là nghe Phật nói hàng Thanh văn sẽ được thành Phật, các ngài vui mừng bất ngờ được của báu chưa từng có. Ví như gã cùng tử khờ dại bỏ cha đi lang thang trong thời gian năm mươi năm. Ông Trưởng giả là người giàu có lớn, có rất nhiều ngọc ngà châu báu, xe, ngựa, ông là người có nhiều uy tín được vua quan cho đến thứ dân đều tôn trọng cung kính. Ngày càng lớn tuổi, ông nhớ trông con về để ủy thác tài sản sự nghiệp.


CHÁNH VĂN
:

11.-
Bây giờ gã cùng tử
Đi tìm cầu ăn mặc
Ấp này đến ấp khác
Nước này sang nước nọ,
Hoặc có khi được của
Hoặc có lúc không được,
Đói thiếu hình gầy gò
Thân thể sanh ghẻ lác
Lần lựa đi trải qua
Đến thành cha gã ở
Xoay vần làm thuê mướn
Bèn đến trước nhà cha
Lúc ấy ông Trưởng giả
Đang ở trong nhà ông
Giăng màn châu báu lớn
Ngồi tòa sư tử cao
Hàng quyến thuộc vây quanh
Đông người đứng hầu hạ
Hoặc có người tính toán
Vàng, bạc, cùng vật báu
Của cải ra hoặc vào
Biên chép ghi giấy tờ
Gã cùng tử thấy cha
Quá mạnh giàu tôn nghiêm
Cho là vị quốc vương
Hoặc là đồng bậc vua
Kinh sợ tự trách thầm
Tại sao lại đến đây?
Lại thầm tự nghĩ rằng:
Nếu ta đứng đây lâu
Hoặc sẽ bị bức ngặt
Ép buộc sai khiến làm.
Suy nghĩ thế đó rồi
Rảo chạy mà đi thẳng
Hỏi thăm xóm nghèo nàn
Muốn qua làm thuê mướn
.

GIẢNG:

Gã cùng tử nghèo đói thân hình tiều tụy lang thang khắp nơi để mưu cầu sự ăn mặc rất gian nan khốn khổ. Một hôm tình cờ trở về cố hương, gặp lại cha già đang ngồi trên tòa báu, có quyến thuộc đông đảo, kẻ hầu hạ, người xuất nhập của cải, kẻ biên chép giấy tờ... có vẻ tôn nghiêm giàu mạnh. Gã cùng tử tự thấy mình lạc loài, tự trách mình sao đến chỗ này, e ngại sẽ bị bắt làm không công, hoặc bị giết, nên hối hận rồi bỏ chạy đi nơi khác. Tâm trạng gã cùng tử giống như chúng ta, nhiều đời đi lang thang trong sáu nẻo luân hồi quá ư khốn khổ, chợt thức tỉnh cầu đạo giải thoát. Nhưng khi tìm đến với đạo, học hiểu chút ít thấy việc thành đạo khó quá sanh nản lòng thối lui không muốn tiến nữa.


CHÁNH VĂN
:

12.-
Lúc bấy giờ Trưởng giả
Ngồi trên tòa sư tử
Xa trông thấy con mình
Thầm lặng mà ghi nhớ,
Ông liền bảo kẻ sứ
Đuổi theo bắt đem về.
Gã cùng tử sợ kêu
Mê ngất ngã trên đất,
Người này theo bắt tôi
Chắc sẽ bị giết chết,
Cần gì đồ ăn mặc
Khiến tôi đến thế này!
Trưởng giả biết con mình
Ngu dại lòng hẹp hèn
Chẳng chịu tin lời ta
Chẳng tin ta là cha
Ông liền dùng phương tiện
Lại sai hai người khác
Mắt chột, thân lùn xấu
Hạng không có oai đức!
Các người nên bảo nó
Rằng ta sẽ thuê nó
Hốt dọn các phân nhơ
Trả giá bội cho nó.
Gã cùng tử nghe rồi
Vui mừng theo sứ về
Vì dọn các phân nhơ
Sạch sẽ các phòng nhà.
Trưởng giả trong cửa sổ
Thường ngó thấy con mình
Nghĩ con mình ngu dại
Ưa thích làm việc hèn
Lúc đó ông Trưởng giả
Mặc y phục cũ rách
Tay cầm đồ hốt phân
Qua đến chỗ con làm
Phương tiện lần gần gũi
Bảo rằng: Ráng siêng làm!
Đã thêm giá cho ngươi
Và cho dầu xoa chưn
Đồ ăn uống đầy đủ
Thêm đệm chiếu dầy ấm
Cặn kẽ nói thế này:
Ngươi nên siêng làm việc!
Rồi lại dịu dàng bảo
Như con thiệt của ta
.

GIẢNG:

Ông Trưởng giả thấy con bỏ chạy, nên sai người đuổi theo bắt lại. Nhưng gã cùng tử thấy người đuổi theo, sợ bắt hành hạ hay giết nên hoảng hốt ngất xỉu. Ông Trưởng giả thấy con mình quá khờ dại nên bảo sứ giả thả ra, mặc tình nó đi đâu thì đi. Tuy nhiên, ông ngầm sai hai người mắt chột, thân lùn xấu, nghèo hèn khuyên gã cùng tử đến hốt phân nhà ông Trưởng giả. Gã cùng tử nhận lời làm thuê cho ông Trưởng giả. Bấy giờ ông Trưởng giả thương xót con khờ dại nên hóa trang, mặc đồ dơ xấu đến gần để an ủi con, cho nó những vật dụng cần dùng, ông khuyên bảo nên siêng làm việc, và nói ông coi gã như là con. Giống như chúng ta khi trở về với đạo, đáng lý phải thừa nhận sự nghiệp lớn lao của Phật là tu để thành Phật và độ sanh. Nhưng vì tâm lượng hẹp hòi, chỉ mong cầu chút ít phước báo ở cõi người cõi trời.


CHÁNH VĂN
:

13.-
Ông Trưởng giả có trí
Lần lần cho ra vào
Trải qua hai mươi năm
Coi sóc việc trong nhà,
Chỉ cho biết vàng, bạc,
Ngọc trân châu, pha lê
Các vật ra hoặc vào
Đều khiến gã biết rõ.
Gã vẫn ở ngoài cửa
Nương náu nơi am tranh
Tự nghĩ phận nghèo nàn
Ta không có vật đó.
Cha biết lòng con mình
Lần lần đã rộng lớn
Muốn giao tài vật cho
Liền nhóm cả thân tộc
Quốc vương, các đại thần
Hàng Sát-lợi, cư sĩ
Rồi ở trong chúng này
Tuyên nói chính con ta
Bỏ ta đi nước khác
Trải hơn năm mươi năm,
Từ gặp con đến nay
Đã hai mươi năm rồi
Ngày trước ở thành kia
Mà mất đứa con này
Ta đi tìm khắp nơi
Bèn đến ngụ nơi đây,
Phàm của cải ta có
Nhà cửa cùng nhân dân
Thảy đều phó cho nó
Mặc tình nó tiêu dùng
Người con nhớ xưa nghèo
Ý chí rất kém hèn
Nay ở nơi cha mình
Được quá nhiều châu báu
Và cùng với nhà cửa
Gồm tất cả tài vật,
Lòng rất đỗi vui mừng
Được điều chưa từng có
.

GIẢNG:

Ông Trưởng giả là người có trí, biết ý chí con hạ liệt, nên phương tiện hướng dẫn cùng tử coi sóc việc nhà cho quen, sau đó chỉ kho tàng của báu, giao cho cùng tử quản lý tất cả sự nghiệp. Rồi ông họp thân tộc, quốc vương, đại thần... công bố cùng tử là con đẻ của ông, sự nghiệp của ông là sự nghiệp của con ông. Gã cùng tử được điều chưa từng có nên rất vui mừng.


CHÁNH VĂN
:

14.-
Đức Phật cũng như thế
Biết con ưa Tiểu thừa
Nên chưa từng nói rằng
Các ngươi sẽ thành Phật
Mà chỉ nói chúng con
Được có đức vô lậu
Trọn nên quả Tiểu thừa
Hàng Thanh văn đệ tử
Đức Phật bảo chúng con
Nói đạo pháp tối thượng
Người tu tập pháp này
Sẽ được thành Phật quả
Chúng con vâng lời Phật
Vì các Bồ-tát lớn
Dùng các món nhân duyên
Cùng các môn thí dụ
Bao nhiêu lời lẽ hay
Để nói đạo Vô thượng
Các hàng Phật tử thảy
Từ nơi con nghe pháp
Ngày đêm thường suy gẫm
Tinh tấn siêng tu tập
Bấy giờ các đức Phật
Liền thọ ký cho kia
Các ông ở đời sau
Sẽ được thành Phật đạo,
Pháp mầu rất bí tàng
Của tất cả các Phật
Chỉ để vì Bồ-tát
Mà dạy việc thiệt đó
Nhưng chẳng vì chúng con
Nói pháp chân yếu nầy
Như gã cùng tử kia
Được gần bên người cha
Dầu lãnh biết các vật
Nhưng lòng chẳng mong cầu
Chúng con dầu diễn nói
Tạng pháp báu của Phật
Tự mình không chí nguyện
Cũng lại như thế đó
.

GIẢNG:

Ngài Ma-ha Ca-diếp hợp pháp ví dụ. Ngài nói rằng ông Trưởng giả dụ cho đức Phật, Phật biết hàng Thanh văn ưa pháp Tiểu thừa nên chưa từng nói “các ngươi sẽ thành Phật”, chỉ nói tu hạnh Thanh văn sẽ chứng Niết-bàn, còn hàng Bồ-tát thì Phật dạy tu pháp tối thượng sẽ thành Phật. Do nghe Phật dạy, nên các ngài cũng nói người nào tu pháp tối thượng sẽ thành Phật. Các ngài nói người nào nghe Phật dạy cố gắng tu và được Phật thọ ký, còn các ngài thì vô phần. Để thấy rằng người học đạo hài lòng với pháp nhỏ mà mình đã được thì khó tiến bộ. Phật vì lòng từ bi, thấy đệ tử không có chí nguyện lớn, nên phương tiện thúc đẩy cho tiến lên, cuối cùng Ngài thọ ký cho thành Phật.


CHÁNH VĂN
:

15.-
Chúng con diệt bề trong
Tự cho là đã đủ
Chỉ xong được việc này
Lại không biết việc khác
Chúng con dầu có nghe
Pháp tịnh cõi nước Phật
Cùng giáo hóa chúng sanh
Đều không lòng ưa vui
Như thế là vì sao?
Vì tất cả các pháp
Thảy đều là không lặng
Không sanh cũng không diệt
Không lớn cũng không nhỏ
Vô lậu và vô vi
Suy nghĩ thế đó rồi
Chẳng sanh lòng ưa muốn
Chúng con đã từ lâu
Đối với trí huệ Phật
Không tham, không ưa thích
Không lại có chí nguyện
Mà đối với pháp mình
Cho đó là rốt ráo
Chúng con từ lâu nay
Chuyên tu tập pháp không
Được thoát khỏi hoạn nạn
Khổ não của ba cõi
Trụ trong thân rốt sau
Hữu dư y Niết-bàn
Đức Phật dạy bảo ra
Chứng được đạo chẳng luống
Thời là đã có thể
Báo được ơn của Phật
Chúng con dầu lại vì
Các hàng Phật tử thảy
Tuyên nói pháp Bồ-tát,
Để cầu chứng Phật đạo,
Mà mình đối pháp đó
Trọn không lòng mong muốn
Đấng Đạo sư buông bỏ
Vì xem biết lòng con
Ban đầu không khuyên gắng
Nói những lợi có thiệt,
Như ông Trưởng giả giàu
Biết con chí kém hèn
Bèn dùng sức phương tiện
Để hòa phục tâm con
Vậy sau mới giao phó
Tất cả tài vật báu,
Đức Phật cũng thế đó
Hiện ra việc ít có
Biết con ưa Tiểu thừa
Bèn dùng sức phương tiện
Điều phục tâm của con
Rồi mới dạy trí lớn
Chúng con ngày hôm nay
Được pháp chưa từng có
Chẳng phải chỗ trước mong
Mà nay tự nhiên được
Như gã cùng tử kia
Được vô lượng của báu
.

GIẢNG:

Ngài Ma-ha Ca-diếp thuật lại việc tu hành của hàng Thanh văn là diệt bề trong cho là đã đủ, lại không biết việc khác. Nghĩa là các ngài một bề dẹp những kiết sử trói buộc ở nội tâm, kiết sử hết thì không còn luân hồi, chứng Niết-bàn, các ngài thấy đó là đủ, không tự biết mình có sẵn Tri kiến Phật, không thực hành pháp tịnh cõi nước Phật, giáo hóa chúng sanh. Sỡ dĩ hàng Thanh văn không ưa giáo hóa chúng sanh, làm thanh tịnh cõi nước Phật là vì các ngài quán chiếu thấy tất cả pháp đều không lặng, không sanh không diệt, không lớn không nhỏ, vô lậu vô vi, chỉ thích an tịnh trong cái tịch tịnh đó. Còn việc độ sanh, tịnh cõi nước Phật, là việc bên ngoài nên không bao giờ nghĩ và thích. Vì vậy, Phật mới vì các ngài khuyến khích muốn cho các ngài được pháp Vô thượng cũng như gã cùng tử được của báu.


CHÁNH VĂN:

16.-
Thế Tôn! Chúng con nay
Được đạo và chứng quả
Ở nơi pháp vô lậu
Được huệ nhãn thanh tịnh.
Chúng con từ lâu nay
Gìn tịnh giới Phật chế
Mới ở ngày hôm nay
Được hưởng quả báo đó
Trong pháp của Pháp vương
Lâu tu hành phạm hạnh
Ngày nay được vô lậu
Quả báu lớn Vô thượng.
Chúng con ngày hôm nay
Mới thiệt là Thanh văn
Đem tiếng đạo của Phật
Cho tất cả đều nghe.
Chúng con ngày hôm nay,
Thiệt là A-la-hán
Ở nơi các thế gian
Trời, người và ma, Phạm
Khắp ở trong chúng đó
Đáng lãnh của cúng dường.
Ơn lớn của Thế Tôn
Đem việc ít có nầy
Thương xót dạy bảo cho
Làm lợi ích chúng con
Trải vô lượng ức kiếp
Ai có thể đền được.
Tay lẫn chân cung cấp
Đầu đảnh lễ cung kính,
Tất cả đem cúng dường
Đều không thể đền được
Hoặc dùng đầu đội Phật
Hai vai cùng cõng vác
Trong kiếp số hằng sa
Tận tâm mà cung kính
Lại đem dưng đồ ngon
Y phục báu vô lượng
Và các thứ đồ nằm
Cùng các món thuốc thang
Gỗ ngưu đầu, chiên-đàn
Và các vật trân báu
Để dựng xây tháp miếu
Y báu lót trên đất
Như các việc trên đây
Đem dùng cúng dường Phật
Trải số kiếp hằng sa
Cũng không đền đáp được
Các Phật thật ít có
Đấng vô lượng vô biên
Đến bất khả tư nghì
Đủ sức thần thông lớn,
Bậc vô lậu vô vi
Là vua của các pháp
Hay vì kẻ hạ liệt
Nhẫn việc cao thượng đó,
Hiện lấy tướng phàm phu
Tùy cơ nghi dạy nói
Các Phật ở nơi pháp
Được sức rất tự tại
Biết các hàng chúng sanh
Có những điều ưa muốn
Và chí lực của nó
Theo sức nó kham nhiệm
Dùng vô lượng thí dụ
Mà vì chúng nói pháp,
Tùy theo các chúng sanh
Trồng căn lành đời trước
Lại biết đã thành thục
Hay là chưa thành thục
Suy lường những điều đó
Phân biệt biết rõ rồi
Ở nơi đạo Nhứt thừa
Tùy cơ nghi nói ba
.

GIẢNG:

Ngài Ma-ha Ca-diếp nói hàng Thanh văn tu pháp Tứ đế chứng quả A-la-hán. A-la-hán là bậc sạch hết lậu hoặc, xứng đáng cho trời người cúng dường nên gọi là Ứng Cúng. Tuy xưa gọi A-la-hán là bậc Ứng Cúng, nhưng nay xét kỹ lại thì quả Thanh văn hãy còn hạn hẹp chưa xứng cho trời người cúng dường. Bấy giờ các ngài Thanh văn, nhận ra Tri kiến Phật mới thật xứng đáng cho trời người cúng dường. Đó là ngài Ma-ha Ca-diếp kể lại công ơn giáo hóa vô cùng lớn lao của Phật. Nhờ công giáo hóa của Phật nên các ngài mới đến được chỗ cứu kính chân thật.

Công ơn giáo hóa sâu dày của Phật cũng như của Thầy Tổ, đối với người học đạo lôi thôi thì họ không thấy không biết, vì họ không nhận được sự lợi ích, vẫn còn mê mờ khổ đau. Còn người học Phật chân chánh, càng tu càng thấy công ơn của Phật đối với chúng ta lớn lao vô kể, và công ơn của Thầy Tổ trực tiếp hướng dẫn chúng ta tu học cũng không phải nhỏ. Tại sao vậy? Vì ở thế gian chúng ta học về ngôn ngữ, luận lý, công nghệ, giúp cho chúng ta khôn ngoan lanh lợi, ăn nói lưu loát. Có nghề nghiệp để sanh sống thì chúng ta có danh vị quyền lợi, được giàu sang no ấm, cao lắm là một đời người bốn năm mươi năm, mà chúng ta còn mang ơn thầy dạy suốt đời. Đối với đức Phật, từ vô lượng kiếp chúng ta vô minh tạo nghiệp, đi trong luân hồi sanh tử chịu khổ triền miên. Nay được Phật chỉ dạy cho phương pháp tu hành, nhận ra Tri kiến Phật thoát ly sanh tử, đời đời kiếp kiếp không còn khổ đau. Như vậy, công ơn của Phật đối với chúng ta chừng bao nhiêu? Không thể tính kể, khó mà đền đáp! Cho dù tâm cung kính đảnh lễ, đầu đội Phật, vai cõng Phật, hoặc dâng cúng thức ăn, y phục, thuốc thang, sàng tòa toàn bằng vật quí báu, hoặc xây tháp miếu thờ tượng Phật trải qua vô lượng kiếp, cũng không đền đáp được công ơn của Phật. Tại sao vậy? Vì tất cả việc làm đó đều là hình thức, là tướng sanh diệt nên có giới hạn. Còn Phật chỉ bày Tri kiến Phật là cái không hình tướng, không giới hạn, chúng ta nhận ra và hằng sống với nó thì dứt khổ đau vĩnh viễn. Lấy cái giới hạn mà đáp cái vô hạn làm sao đáp được? Khi đã biết ơn Phật đối với chúng ta lớn lao vô kể, thì cái ơn gần nhất là Thầy Tổ, đã có công nối tiếp nhắc nhở lời Phật dạy cho chúng ta nghe để tu, thì công ơn ấy cũng không thể kể xiết.

Vì vậy ngài Ma-ha Ca-diếp tán thán công ơn của Phật không thể tính kể, không thể đền đáp. Vì thương và làm lợi ích cho đệ tử mà đức Phật đã phương tiện, tùy nghi phân biệt giảng dạy từ thấp lên cao, cuối cùng đưa các ngài từ quả vị Thanh văn đến đạo Nhất thừa rốt ráo.

No comments:

Post a Comment