CHÁNH VĂN:
3.- Lại nữa, vị đại Bồ-tát quán sát “Nhứt thiết pháp không như thiệt tướng” chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư không, không có Thật tánh, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng, thiệt không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại, không chướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh cho nên nói, thường ưa quán sát Pháp tướng như thế, đó gọi là “chỗ thân cận” thứ hai của vị đại Bồ-tát.
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
4.-
Nếu có vị Bồ-tát
Ở trong đời ác sau
Lòng không hề sợ sệt
Muốn nói kinh pháp này
Nên trụ vào “Hành xứ”
Và trụ “Thân cận xứ”.
Thường xa rời Quốc vương
Và con của Quốc vương
Quan đại thần, quan lớn
Kẻ chơi việc hung hiểm
Cùng bọn chiên-đà-la
Hàng ngoại đạo Phạm chí
Cũng chẳng ưa gần gũi
Hạng người tăng thượng mạn
Hàng học giả tham chấp
Kinh, Luật, Luận Tiểu thừa
Những Tỳ-kheo phá giới
Danh tự A-la-hán
Và những Tỳ-kheo ni
Ưa thích chơi giỡn cười.
Các vị Ưu-bà-di
Tham mê năm món dục
Cầu hiện tại diệt độ
Đều chớ có gần gũi.
Nếu những hạng người đó
Dùng tâm tốt mà đến
Tại chỗ của Bồ-tát
Để vì nghe Phật đạo
Bồ-tát thời nên dùng
Lòng không chút sợ sệt
Chẳng có niệm mong cầu
Mà vì chúng nói pháp.
Những gái góa, gái trinh
Và các kẻ bất nam
Đều chớ có gần gũi
Để cùng làm thân hậu.
Cũng chớ nên gần gũi
Kẻ đồ tể cắt thái
Săn bắn và chài lưới
Vì lợi mà giết hại
Bán thịt để tự sống
Buôn bán sắc gái đẹp
Những người như thế đó
Đều chớ có gần gũi.
Các cuộc chơi giỡn dữ
Hung hiểm đâm đánh nhau
Và những dâm nữ thảy
Trọn chớ có gần gũi.
Chớ nên riêng chỗ khuất
Vì người nữ nói pháp
Nếu lúc vì nói pháp
Chẳng được chơi giỡn cười
Khi vào xóm khất thực
Phải dắt một Tỳ-kheo
Nếu không có Tỳ-kheo
Phải một lòng niệm Phật
Đây thời gọi tên là
“Hành xứ”, “Thân cận xứ”.
Dùng hai xứ trên đây
Có thể an lạc nói.
Lại cũng chẳng vin theo
Pháp thượng, trung và hạ
Hữu vi hay vô vi
Thiệt cùng pháp chẳng thiệt
Cũng chẳng có phân biệt
Là nam là nữ thảy
Lại chẳng được các pháp
Chẳng biết cũng chẳng thấy
Đây thời gọi tên là
“Hành xứ” của Bồ-tát.
Tất cả các món pháp
Đều không, chẳng chỗ có
Không có chút thường trụ
Vẫn cũng không khởi diệt
Đây gọi là “Thân cận”
Chỗ người trí hằng nương.
Chớ đảo điên phân biệt
Các pháp có hoặc không
Là thật, chẳng phải thật
Là sanh chẳng phải sanh.
Ở an nơi vắng vẻ
Sửa trau nhiếp tâm mình
An trụ chẳng lay động
Như thể núi Tu-di.
Quán sát tất cả pháp
Thảy đều không thật có
Dường như khoảng hư không
Không có chút bền chắc.
Chẳng sanh cũng chẳng xuất
Chẳng động cũng chẳng thối
Thường trụ một Tướng thể
Đó gọi là “Cận xứ”.
Nếu có vị Tỳ-kheo
Sau khi ta diệt độ
Vào được “Hành xứ” này
Và “Thân cận xứ” đó
Thời lúc nói kinh này
Không có lòng e sợ.
Vị Bồ-tát có lúc
Vào nơi nhà tịnh thất
Lòng nghĩ nhớ chân chánh
Theo đúng nghĩa quán pháp.
Từ trong Thiền định dậy
Vì các bậc Quốc vương
Vương tử và quan, dân
Hàng Bà-la-môn thảy
Mà khai hóa diễn bày
Rộng nói kinh điển này
Tâm vị đó an ổn
Không có chút khiếp nhược.
Văn-thù-sư-lợi này!
Đó gọi là Bồ-tát
An trụ trong sơ pháp
Có thể ở đời sau
Diễn nói kinh Pháp Hoa.
GIẢNG:
Trên là Phật nêu lên sự tướng mà người nói kinh Pháp Hoa cần phải có, để khi giáo hóa chúng sanh không bị chướng ngại. Tới đây là phần lý, người nói kinh Pháp Hoa phải đạt được, tức là thấy các pháp không có tướng cố định do duyên hợp tạm có, nên tâm không điên đảo, không động, không thối chuyển, như hư không, không có Thật tánh. Tất cả lời nói đều không thật, không sanh, không diệt v.v... Tất cả các pháp đều từ nhân duyên mà sanh, do điên đảo mà có. Tại sao nói pháp do điên đảo mà có? Thí dụ đêm tối có người cầm cây nhang cháy quay thật nhanh, người ngoài nhìn thấy một vòng lửa tròn. Vòng lửa tròn ấy không thật có, chẳng qua do tay quay cây nhang nhanh, mắt nhìn không kịp, nên thấy một vòng lửa. Thấy không tới lẽ thật, nên nói điên đảo như thế. Chúng ta có thân này là do duyên hợp tạm có không thật. Nếu nó còn thì mừng, nó hoại thì sợ. Bởi sợ nó mất nên khởi niệm điên đảo tìm gá thân khác. Từ niệm điên đảo đó mà tiếp nối thân sau đi mãi trong ba cõi, nên nói điên đảo sanh. Chúng ta nhìn cho thật kỹ thì tất cả các pháp ở thế gian này, có pháp nào là thật? Như con người, ai cũng nhận thân này là ta là mình, thế mà mỗi ngày đưa vô một số thức ăn, nước, không khí vào trong thân, bao tử, ruột, phổi, tim... nó biến hóa, nó làm gì, chúng ta hoàn toàn không biết, không hề ra lịnh cho nó làm thế này hay thế kia, mặc tình nó làm gì thì làm, nó biến hóa ra sao tùy nó. Nó biến hóa tốt thì thân khỏe mạnh, biến hóa không tốt thì thân đau bệnh. Chúng ta hoàn toàn không biết gì về hoạt động bên trong của thân. Tim đập nhanh, chậm, hay ngừng nghỉ tùy nó; bao tử ruột tiêu hóa tốt hay xấu cũng tùy nó, chúng ta không điều khiển được. Vậy mà nhận nó là ta, chấp chặt nó là mình thật, đó là cái tưởng điên đảo, không đúng sự thật.
Với cái nhìn của Trí tuệ Bát-nhã thấy sự vật là một dòng chuyển biến trôi chảy, đủ duyên thì tụ, hết duyên thì tan, luôn luôn chuyển động không dừng. Vạn vật luôn luôn biến dịch mà mắt phàm phu của chúng sanh không thấy không biết. Nhìn sự vật như cái bàn, với mắt người thường thì thấy nó là một cố thể, nhưng với mắt khoa học phân tích từ thô đến tế thì cái bàn do nhiều miếng gỗ ráp lại bởi những cây đinh, công thợ... và rồi phân tích đến chỗ vi tế thì thấy cái bàn hình thành bởi những nguyên tử nó đang quay vùn vụt ở trong mỗi vật. Ngay thân con người thì thấy vô số tế bào đang hoạt động, ngay nơi vật thì thấy vô số nguyên tử đang quay, tất cả đều di động không dừng. Vì vậy Phật nói tất cả pháp không có một pháp nào có Thật thể cố định, tụ tán biến chuyển không dừng. Đã là pháp chuyển biến, mà chấp bám chặt muốn nó dừng một chỗ là khờ dại ngu si. Càng bám giữ cái không bao giờ dừng đứng là càng khổ đau. Nên nói chấp là gốc của khổ, điều đó cụ thể vô cùng. Với mắt Trí tuệ Bát-nhã thấy tất cả người vật là một dòng trôi chảy không dừng. Con người thì sanh, già, bệnh, chết tuần tự đuổi nhau, vật thì thành, trụ, hoại, không. Nếu biết chuyện sẽ đến đương nhiên phải đến, lo sợ cũng không khỏi, nên nhìn và cười nó đến đi một cách bình thản, người như thế có phải là người trí không? Chư Tổ xưa kia trí tuệ tròn đầy, các ngài nói thân này còn cũng tốt mà hoại cũng vui không có gì sợ sệt. Người trí thấy đúng như thật là thấy các pháp là một dòng chuyển biến, đã chuyển biến thì chấp nhận nó đổi thay. Đó là nói các pháp có hình tướng. Còn tâm niệm con người cũng vậy, chợt khởi chợt mất, giây phút trước nghĩ chuyện này, giây phút sau nghĩ chuyện khác, tiếp nối nhau nghĩ tưởng không có được một phút giây dừng lặng. Nó cũng là một dòng trôi chảy biến dịch, ngày nay nghĩ như vậy, ngày mai chưa chắc cũng nghĩ như vậy, vì vọng niệm vô thường đổi thay! Nên đừng chấp lời nói ý nghĩ người đó trước sau như một, nó cứ biến chuyển đổi thay hoài. Vì vậy người tu chúng ta cũng phải thay đổi, chuyển từ nghiệp bất thiện sang nghiệp thiện, chuyển từ mê sang tỉnh. Thí dụ như khi chưa tu thì tham, sân, si có đủ một trăm phần trăm khi biết tu chuyển tham, sân, si giảm dần còn chín mươi, tám mươi, bảy mươi phần trăm cho đến khi hết tham, sân, si.
Tóm lại, Phật dạy Bồ-tát nói kinh Pháp Hoa giáo hóa chúng sanh, trên mặt sự phải đủ giới tướng, trên mặt lý phải quán thông các pháp, thì khi hành Bồ-tát đạo, mình được an vui, chúng sanh được lợi ích. Nếu chấp sự mà không thông lý, thì chỉ có được hình tướng để cho người mến, cũng chẳng giáo hóa chúng sanh được thăng tiến lợi ích. Còn nếu thông lý mà bỏ sự, khiến cho người hoang mang không kính tin, cũng không giáo hóa làm lợi ích cho chúng sanh được. Vì vậy lý sự phải viên dung thì việc tự giác giác tha mới viên mãn.
CHÁNH VĂN:
5.- Lại Văn-thù-sư-lợi! Sau khi đức Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh An lạc, hoặc miệng tuyên nói hoặc lúc đọc kinh đều chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển; cũng chẳng khinh mạn các Pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng Thanh văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen ngợi điều tốt của người đó.
Lại cũng chẳng sanh lòng oán hiềm, vì khéo tu lòng an lạc như thế nên những người nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp Tiểu thừa đáp, chỉ dùng pháp Đại thừa mà vì đó giải nói làm cho được bậc “Nhứt thiết chủng trí”.
GIẢNG:
Hai là Phật dạy người nói kinh Pháp Hoa mà được an vui thì đừng có nói lỗi người và lỗi kinh, đừng có khinh Pháp sư khác, không nên nói việc hay dở tốt xấu của người. Đối với hàng Thanh văn không khen và cũng không chê. Đa số chúng ta thời nay tụng kinh Pháp Hoa sợ đổ nghiệp, vì vừa ra khỏi đạo tràng thì khen người này chê người kia, tạo điều kiện cho phiền não dấy động làm mờ Trí tuệ Phật, trái với lời Phật dạy thì làm sao được an lạc? Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ đánh Sa-di Thần Hội ở chỗ thấy lỗi người. Lục Tổ dạy chỉ thấy lỗi mình mà không nên thấy lỗi người, vì thấy lỗi người thì lỗi mình đã đến một bên rồi, đó là điều chướng đạo. Tại sao? Vì thấy lỗi người thì bực bội không thể thương người được, bực bội không thương thì không giáo hóa, không chướng đạo là gì? Thế nên không thấy lỗi người, mà hằng thấy tâm niệm mình đang an ổn hay đang bị vọng tưởng dấy động phiền não phủ che, để điều phục cho được yên.
Trên Phật dạy nơi miệng không nói lỗi người không khen chê người. Tới đây Phật dạy nơi tâm không sanh lòng oán hiềm, nếu có người hỏi thì không dùng pháp Tiểu thừa để đáp, chỉ dùng pháp Đại thừa giải nói làm cho họ được Nhất thiết chủng trí. Người nói kinh mà tâm còn oán thù người này, hiềm hận người kia, thì tự mình đã chướng đạo, không có lòng từ bủa rộng đâu làm lợi ích cho người được. Và nếu chỉ đem pháp Tiểu thừa ra giảng nói, mà không nói pháp Đại thừa thì không đưa người đến chỗ rốt ráo thành Phật cũng là chướng đạo, chưa đủ tư cách nói kinh Pháp Hoa.
CHÁNH VĂN:
Khi ấy, Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
6.-
Vị Bồ-tát thường ưa
An ổn nói kinh pháp
Ở nơi chỗ thanh tịnh
Mà sắp đặt sàng tòa
Dùng hương dầu xoa thân
Tắm gội các bụi dơ
Mặc y mới sạch sẽ
Trong ngoài đều sạch thơm
Ngồi an nơi pháp tòa
Theo chỗ hỏi vì nói.
Nếu có vị Tỳ-kheo
Cùng với Tỳ-kheo ni
Các hàng Ưu-bà-tắc
Và hàng Ưu-bà-di
Quốc vương và vương tử
Các quan cùng sĩ dân
Dùng pháp nghĩa nhiệm mầu
Vui vẻ vì họ nói
Nếu có người gạn hỏi
Theo đúng nghĩa mà đáp
Nhân duyên hoặc thí dụ
Giải bày phân biệt nói
Dùng trí phương tiện này
Đều khiến kia phát tâm
Lần lần thêm đông nhiều
Vào ở trong Phật đạo.
Trừ lòng lười biếng trễ
Cùng với tưởng giải đãi
Xa rời các ưu não
Tâm từ lành nói pháp.
Ngày đêm thường tuyên nói
Giáo pháp Vô thượng đạo
Dùng các việc nhân duyên
Vô lượng món thí dụ
Mở bày dạy chúng sanh
Đều khiến chúng vui mừng
Y phục cùng đồ nằm
Đồ ăn uống thuốc thang
Mà ở nơi trong đó
Không có chỗ mong cầu
Chỉ chuyên một lòng nhớ
Nhân duyên nói kinh pháp
Nguyện ta thành Phật đạo
Khiến mọi người cũng vậy
Đó là lợi lành lớn.
Là an vui cúng dường.
Sau khi ta diệt độ
Nếu có vị Tỳ-kheo
Có thể diễn nói được
Kinh Diệu Pháp Hoa này
Lòng không chút ganh hờn
Không các não chướng ngại
Cũng lại không ưu sầu
Và cùng mắng nhiếc thảy
Lại cũng không sợ sệt
Không dao gậy đánh đập
Cũng không xua đuổi ra
Vì an trụ nhẫn vậy.
Người trí khéo tu tập
Tâm mình được dường ấy
Thời nay trụ an lạc
Như ta nói ở trên
Công đức của người đó
Trong nghìn muôn ức kiếp
Tính kể hay thí dụ
Nói chẳng thể hết được.
GIẢNG:
Phật trùng tụng và lặp lại ý trên, tuy nhiên có thêm vài chi tiết. Phật dạy phải ăn mặc sạch sẽ trang nghiêm để nói đạo. Kế đến nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Vua, quan... tới hỏi đạo, thì với sắc diện hòa nhã vui vẻ mà đáp, chớ có thái độ bực dọc cau có. Khi đáp thì phải đáp cho đúng với nghĩa lý Phật dạy, dùng mọi cách dẫn giải thí dụ, để cho họ hiểu lần lần được vào đạo.
No comments:
Post a Comment